⚠️Những hiểu biết mới về kết quả #giãn phế quản với Lung microbiome❗️
❇️Giãn phế quản, một bệnh lý không đồng nhất về lâm sàng và nguyên nhân, được đặc trưng bởi sự giãn nở vĩnh viễn và dày thành đường thở.
❇️Giãn phế quản liên quan đến hệ vi sinh vật như một cấu trúc động ảnh hưởng đến cấu trúc phổi thông qua việc tạo ra
🔺elastase
🔺cytokine
🔺 ma trận metallicoproteinase (MMP) một cách không được kiểm soát.
❇️Chức năng rối loạn điều hòa của bạch cầu trung tính trong bệnh giãn phế quản có liên quan đến những thay đổi trong cấu tạo của hệ vi sinh vật, với #Proteobacteria bao gồm;
♦️Moraxella
♦️Pseudomonas
♦️Enterobacteriaceae
♦️Stenotrophomonas
♦️ chiếm ưu thế
❇️Haemophilus, Pseudomonas và Streptococcus thống trị hệ sinh thái vi khuẩn phổi, chúng thể hiện sự ổn định đáng kể giữa các cá thể và tính không đồng nhất giữa các cá thể.
❇️Các vi khuẩn chủ yếu là Pseudomonas và Haemophilus có liên quan đến các bệnh nặng hơn và các đợt cấp thường xuyên hơn.
❇️Mối liên hệ của Veillonella với đợt cấp cho thấy rằng vi khuẩn kỵ khí này đóng một chức năng lừa đảo trong cộng đồng vi sinh vật phức tạp có liên quan đến bệnh giãn phế quản.
❇️Khả năng xâm nhập của nấm Aspergillus fumigatus cao hơn và tình trạng bệnh giãn phế quản trước đó trầm trọng hơn có liên quan đến nhiễm trùng mycobacteria không lao (NTM).
❇️Haemophillusenzae tăng cường MMP2 và MMP8 ở những cá thể có đặc điểm pseudomonas trội.
❇️Nghiên cứu ban đầu về bệnh giãn phế quản mycobiome cho thấy có nhiều loại nấm có khả năng gây bệnh như Aspergillus, Penicillium và Cryptococcus.
♦️Ngoài ra, nghiên cứu còn tiết lộ sự hiện diện của tình trạng mẫn cảm dị ứng không mong muốn liên quan đến Aspergillus.
♦️Các vùng địa lý sau đó được sử dụng để xác định các cấu hình mycobiome riêng biệt:
👉🏻Người châu Á có lượng Wickerhamomyces, Clavispora và Cryptococcus dồi dào hơn, trong khi người châu Âu có lượng Simplicillium, Trichosporon và Aspergillus dồi dào hơn.
♦️Ở cả hai thế hệ đều thường xuyên quan sát thấy nấm Candida
❇️Các vi khuẩn, mycobiome và virome trước đây được coi là những thực thể riêng biệt giờ đây đang kết hợp để tạo thành một “đa quần thể” toàn diện có tác dụng điều trị bệnh giãn phế quản cũng như các rối loạn về phổi khác.
👉Tóm lại, điều quan trọng là phải xem xét cấu tạo của các hệ vi sinh vật ở các vị trí giải phẫu khác.
🔺Thành phần của hệ vi sinh vật đường miệng có thể ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch của đường hô hấp dưới và làm nổi bật sự tồn tại của các rối loạn hô hấp khác.
🔺Khả năng hút vi khuẩn đường ruột và các tác động gây viêm sau đó có thể làm thay đổi thành phần của hệ vi sinh vật đường tiêu hóa. 🔺Phản ứng gây bệnh khi tiếp xúc với vi sinh vật trong phổi có thể bị ảnh hưởng bởi sự kết nối thông qua trục phổi-ruột giữa cân bằng nội môi miễn dịch và hệ vi sinh vật đường ruột.
🔺Vì các bệnh đi kèm với bệnh giãn phế quản, bệnh trào ngược dạ dày thực quản và hội chứng ruột kích thích cho thấy khả năng xảy ra hệ vi khuẩn đường ruột rối loạn sinh học.
🖇Xin vui lòng đọc thêm về chủ đề tại đây 👉🏻: https://lnkd.in/diFkfJvB
🧠Một phát hiện như vậy là việc xác định tình trạng mẫn cảm với nấm, có thể liên quan đến các phương pháp y học chính xác nhắm vào các kiểu nội tiết. Hơn nữa, việc áp dụng sớm metagenomics vào điều trị giãn phế quản đã chứng minh tiềm năng đáng kể trong việc lập bản đồ phơi nhiễm và phát triển tình trạng kháng kháng sinh. Việc phát hiện ra các cấu hình thể thực khuẩn độc đáo, bền bỉ trong hệ vi sinh vật đường ruột đã cung cấp một khuôn khổ rõ ràng cho các nghiên cứu về phổi trong tương lai, đặc biệt là những nghiên cứu về thể thực khuẩn trong bệnh giãn phế quản. Tuy nhiên, việc đánh giá rộng rãi về virome hay “phageome” liên quan đến hệ vi sinh vật gây giãn phế quản là cần thiết. Có mối tương quan đáng kể giữa sự nhạy cảm và giãn phế quản, cho thấy khả năng tương tác giữa vật chủ và môi trường và tiềm năng sử dụng nghiên cứu metagenomic. Thành phần của hệ vi sinh vật đường ruột đặc biệt quan trọng vì khả năng hút vi khuẩn đường ruột cận lâm sàng và hậu quả viêm nhiễm sau đó. Rối loạn tiêu hóa bao gồm bệnh viêm ruột và bệnh trào ngược dạ dày thực quản, cả hai đều được phát hiện là bệnh đi kèm với bệnh giãn phế quản, có thể là dấu hiệu của hệ vi sinh vật đường ruột rối loạn sinh học
P.N, 126.24 🧨💣Hạn chế: Cần nghiên cứu bổ sung để mở rộng hiểu biết của chúng ta về hệ vi sinh vật ở nhiều nhóm bệnh nhân, cả ổn định và trầm trọng hơn cũng như đáp ứng với nhiều loại thuốc khác nhau. Những dữ liệu này nên được sử dụng trong các thử nghiệm lâm sàng để xác định nhóm bệnh nhân có khả năng đáp ứng cao hơn với các loại thuốc cụ thể hoặc để hướng dẫn các phương pháp điều trị được cá nhân hóa hơn. Nghiên cứu hệ vi sinh vật trong tương lai phải bao gồm số lượng bệnh nhân lớn hơn và thời gian theo dõi lâu hơn để nắm bắt hoàn toàn tính không đồng nhất của bệnh cả trong trạng thái ổn định và trong đợt trầm trọng. Việc giải trình tự hệ vi sinh vật khó có thể thay đổi đáng kể thực hành lâm sàng ở dạng hiện tại vì đây là một quá trình rất tốn thời gian và cần phân tích tin sinh học chuyên biệt. Các kỹ thuật giải trình tự thế hệ thứ ba như giải trình tự thời gian thực đơn phân tử của Oxford Nanopore Technologies và PacBio có thể được sử dụng trong thực hành lâm sàng.
✴️Các phản ứng miễn dịch được kích hoạt bởi sự kích hoạt các cấu trúc vi sinh vật thường là bạch cầu trung tính và ít gặp là bạch cầu ái toan.
✴️Nâng cao trình độ
👉🏻IL-1β
👉🏻IL-8
👉🏻leukotriene (LT)B4
👉🏻CXCL2
👉🏻TNFa
luôn hiện diện trong các phản ứng cytokine không đồng nhất.
✴️Các phản ứng miễn dịch được kích hoạt bởi sự kích hoạt các cấu trúc vi sinh vật thường là bạch cầu trung tính và ít gặp là bạch cầu ái toan. Nồng độ IL-1β, IL-8, leukotriene (LT)B4, CXCL2 và TNFα tăng cao luôn hiện diện trong các phản ứng cytokine không đồng nhất.
✴️Các mức này hỗ trợ giải phóng phân tử bám dính tế bào-1 (ICAM-1) và phân tử bám dính tế bào mạch máu-1 (VCAM-1) từ nội mô, từ đó thúc đẩy việc thu nhận bạch cầu trung tính và bạch cầu ái toan vào đường thở. Chức năng của bạch cầu trung tính vẫn là quan trọng nhất.
Sử dụng kháng sinh
Tác động của việc sử dụng kháng sinh Levofloxacin lên hệ vi sinh vật ở phổi, trong đó nêu bật hoạt tính mạnh mẽ của kháng sinh chống lại phần lớn vi khuẩn hội sinh ở đối tượng khỏe mạnh. Trong khi phổi của động vật không được điều trị có hệ vi khuẩn hỗn hợp, chủ yếu thuộc chi Serratia, thì phổi của động vật được điều trị chủ yếu lại chứa vi khuẩn thuộc chi Pantoea. Nghiên cứu này đưa ra giả thuyết rằng việc sử dụng kháng sinh không hợp lý sẽ ảnh hưởng đến hệ sinh thái của hệ vi sinh vật thông qua việc giảm sự đa dạng của vi khuẩn, rằng Vancomycin có khả năng phá vỡ hệ vi sinh vật phổi ở chuột một cách ưu tiên, nhấn mạnh lý thuyết này. Nó được gạch chân rằng đã hít phải Pseudomonas. nội độc tố agglomerans có thể quyết định sự kích hoạt của đại thực bào phế nang và bài tiết các chất trung gian như interleukin-1, yếu tố hoại tử khối u (TNF) và prostaglandin, dẫn đến sự tích tụ tiểu cầu trong mao mạch phổi gây ra tình trạng viêm cấp tính và mãn tính, sau đó gây co thắt phế quản, giảm thể tích thở ra gắng sức trong giây đầu tiên, giảm khả năng khuếch tán carbon monoxide của phổi và tăng phản ứng đường thở, dẫn đến các triệu chứng hô hấp đáng kể
✴️Hút thuốc có liên quan đến việc giảm số lượng tế bào đuôi gai đường thở và tăng đại thực bào, bạch cầu trung tính, bạch cầu ái toan và tế bào mast, làm thay đổi hoạt động của đại thực bào và bạch cầu trung tính. Nhiều loại vi khuẩn đã được tìm thấy trong lá thuốc lá mới, bao gồm Stenotrophomonas maltophilia, các loài Pseudomonadaceae bao gồm Pseudomonas fluorescens, và Pantoea agglomerans cũng như Acinetobacter calcoaceticus. Nhiều loại vi khuẩn trong thuốc lá, bao gồm cả vi khuẩn cộng sinh của con người và Pseudomonas aeruginosa, Acinetobacter, Clostridium, Klebsiella và Burkholderia sống trong đất, chúng ta có thể kết luận rằng những người hút thuốc có thể nhiễm và xâm chiếm vi khuẩn theo nhiều cách khác nhau do lựa chọn lối sống của họ. Ngoài ra, do khói thuốc lá có tác động tàn phá đến phản ứng miễn dịch ngoại biên, dẫn đến giảm hoạt động của tế bào tiêu diệt tự nhiên và tăng khả năng bị nhiễm trùng, có thể tải lượng vi khuẩn và số lượng vi khuẩn khác nhau ở những người nghiện thuốc lá là do tế bào chủ giảm. phòng vệ do bản chất ức chế miễn dịch của thuốc lá.
✴️Có hai nguồn tín hiệu sai chính trong nghiên cứu hệ vi sinh vật đường hô hấp: ô nhiễm lấy mẫu và ô nhiễm trình tự (ví dụ: DNA của vi khuẩn có trong thuốc thử trong phòng thí nghiệm): trong khi rửa phế quản phế nang (mẫu sinh khối thấp) ít bị ô nhiễm mẫu nhưng dễ bị ô nhiễm thuốc thử hơn, đờm (mẫu sinh khối cao) dễ bị nhiễm bẩn lấy mẫu do hệ vi sinh vật ở họng và ít bị nhiễm bẩn trình tự hơn. Tuy nhiên, dưới sự kiểm soát chặt chẽ, các nghiên cứu nội soi phế quản đã chỉ ra rằng, với điều kiện thực hiện các biện pháp phù hợp (ví dụ: giảm lực hút qua kênh chính trước khi rửa), vi khuẩn hầu ít ảnh hưởng đến việc rửa phế quản phế nang và các mẫu vật được bảo vệ khi chải. Các phương pháp phổ biến nhất để lấy mẫu hệ vi sinh vật đường hô hấp là: rửa phế quản phế nang, hút khí quản, chải mẫu được bảo vệ, đờm, mô phổi được phẫu thuật cắt bỏ và cấy ghép, phết đường hô hấp trên.
(St.)
Ý kiến bạn đọc (0)